Sự phát triển của trẻ luôn là mối quan tâm hàng đầu của cha mẹ, không chỉ là vấn đề dinh dưỡng phát triển thể chất cho con mà cả về tâm lý, đặc biệt ở giai đoạn 2 - 4 tuổi.
Đây là là giai đoạn trẻ có sự phát triển đột phá cũng như có những bất thường khiến cha mẹ lo lắng. Nhiều cha mẹ băn khoăn khi thấy trẻ chậm nói, nói màu sắc, đếm số Tiếng Anh mà không nói Tiếng Việt. Lại có những trẻ hoạt động liên tục không chịu ngồi yên, trẻ như được gắn “động cơ” vào người. Vậy trẻ có đang ổn không hay gặp phải vấn đề gì? Có cần can thiệp không? Bài viết dưới đây sẽ hỗ trợ cha mẹ hiểu rõ về vấn đề của trẻ nhé.
1. Rối loạn tăng động giảm chú ý
Theo Hiệp Hội Tâm Thần Mỹ (2013) đề cập đến rối loạn tăng động giảm chú ý đó là một rối loạn phát triển thần kinh đặc trưng bởi giảm chú ý và/hoặc tăng động/bốc đồng diễn ra thường xuyên, xuất hiện ở nhiều môi trường và gây ảnh hưởng đến chức năng sống.
Nguyên nhân rối loạn tăng động giảm chú ý
Hiện nay, chưa tìm được nguyên nhân gây nên rối loạn này, một số giả thuyết được đưa ra:
Giả thuyết yếu tố trước sinh và chu sinh: Trong quá trình mang thai mẹ bị phơi nhiễm chất độc, mẹ sử dụng các chất kích thích, hút thuốc lá, rượu, bia… Khi sinh trẻ thiếu tháng, nhẹ cân.
Giả thuyết yếu tố thể chất: sự thiếu hụt hoặc dư thừa dinh dưỡng, nhiễm các chất độc từ môi trường ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.
Giả thuyết yếu tố tâm lý xã hội: việc trẻ sống trong hoàn cảnh gia đình bất lợi, cách nuôi dạy khắc nghiệt thù địch sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.
Biểu hiện rối loạn tăng động giảm chú ý
Duy trì chú ý tập trung của trẻ thường rất ngắn, trẻ nhanh chán, chơi một chút rồi bỏ, khó duy trì chú ý khi làm các nhiệm vụ hoặc hoạt động.
Hoạt động của trẻ diễn ra liên tục dường như không bao giờ hết năng lượng, nếu phải ngồi yên thì ngọ nguậy, nghiêng trái nghiêng phải…Trẻ không có khả năng chơi yên lặng mà thay vào đó trẻ nói quá nhiều, hoặc sử dụng lực mạnh gây ồn ào. Trẻ cũng rất khó lắng nghe khi trò chuyện, hay ngắt lời, chen ngang khi người khác đang nói.
Hiểu và chờ đợi khó, trẻ rất khó chờ đợi đến lượt của mình, trẻ có thể chen hàng, hoặc giành lấy trước tiên.
Khó kiềm chế cảm xúc, trẻ dễ bị kích động ngay khi nghe “không”, “chưa được”, “chờ xíu”…trẻ có thể khóc, lăn lộn dù ở nhà, ở trường, ở nơi công cộng.
Các phương pháp can thiệp cho trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý
Tùy vào tình trạng và mức độ rối nhiễu trẻ gặp phải để lựa chọn can thiệp hỗ trợ phù hợp như điều trị thuốc, điều chỉnh dinh dưỡng, can thiệp giáo dục. Cụ thể như sau:
Điều trị thuốc: Cần căn cứ vào tình trạng, mức độ trẻ gặp phải và phác đồ điều trị của bác sĩ.
Điều chỉnh dinh dưỡng: Việc sử dụng những sản phẩm có nhiều năng lượng, đồ ăn chiên nhiều dầu mỡ, thành phần ngọt nhiều sẽ kích thích khiến trẻ hoạt động nhiều hơn. Vì vậy, cần hạn chế các sản phẩm như trà sữa, cà phê, nước ngọt có ga, bánh ngọt, đồ ăn chiên nhiều dầu mỡ.
Can thiệp giáo dục: Đây là phương pháp quan trọng cốt lõi giúp trẻ cải thiện và phát triển. Dưới đây là một vài gợi ý:
Nguyên tắc chia nhỏ: Tức là cần chia nhỏ những yêu cầu, nhiệm vụ, thời gian sau đó tăng dần tùy theo khả năng và vấn đề của trẻ. Như từ việc yêu cầu trẻ ăn hết một chén cơm mới được rời khỏi chỗ, hãy nới lỏng từ việc xúc ăn hết 1/3 rồi 1/2 chén cơm rồi sau đó là cả chén cơm. Hay thay vì yêu cầu trẻ ngồi học hết 30 phút trên ghế, hãy bắt đầu từ 5 phút rồi 10 phút rồi 15 phút 20 phút và 30 phút. Khi đó, trẻ có thể thực hiện được nhiệm vụ trong khả năng và tăng dần mức độ, trẻ sẽ tự tin vào bản thân hơn, tạo động lực khuyến khích trẻ cố gắng nỗ lực.
Nguyên tắc sắp xếp: Việc xây dựng thời gian biểu, sắp xếp những nhiệm vụ hoạt động giúp trẻ hiểu những yêu cầu cần làm, tăng khả năng tự giác chủ động hoàn thành, đồng thời hạn chế những cơn bùng nổ khi có những kích thích xáo trộn mới từ bên ngoài.
Nguyên tắc kết hợp: Là cần có sự kết hợp đa kỹ năng, tạo nên những hoạt động mới gây hứng thú với trẻ, như kết hợp đi cầu thang và đếm bước chân hay vượt qua chướng ngại vật giải cứu thú cưng.
Nguyên tắc thô trước tinh sau: Tức là nên cho trẻ tham gia các hoạt động vận động trước như ném bóng, chạy bộ… sau đó học các bài vận động tinh tế, tập trung như tô màu, lắp ghép…
Và luôn luôn ghi nhớ cần động viên khuyến khích trẻ cổ vũ việc làm đúng, hạn chế nhắc lỗi sai, phạt trẻ.
2. Rối loạn ngôn ngữ
Trẻ nói Tiếng Anh mà không nói Tiếng Việt hoặc nói Tiếng Anh và Tiếng Việt lẫn lộn là trẻ rối loạn ngôn ngữ đúng không? Câu trả lời là “ Không”.
Rối loạn ngôn ngữ là một rối loạn giao tiếp được đặc trưng bởi sự khó khăn kéo dài trong việc tiếp thu và sử dụng ngôn ngữ do thiếu khả năng hiểu và sử dụng từ vựng, ngữ pháp và hạn chế trong cách diễn đạt.
Biểu hiện rối loạn ngôn ngữ bao gồm:
Thứ nhất, về vốn từ: Trẻ có vốn từ ít hơn so với độ tuổi, như khi ở tuổi lên 4 trẻ mới chỉ có thể nói được từ ghép, vốn từ dưới 50 từ.
Thứ hai, về ngữ pháp: Trẻ gặp khó khăn trong việc tạo câu, kết hợp các từ, sử dụng cấu trúc câu phù hợp với ngữ cảnh. Ví như khi trẻ đến chỗ lạ trẻ sợ hãi, nhưng trẻ không nói với chúng ta trẻ sợ, trẻ lại bắt đầu đếm “1 2 3…”, hoặc khi trẻ đói bụng, trẻ muốn ăn cơm, thay vì nói “con muốn ăn cơm” Trẻ sẽ nói “ ăn cơm không?” hoặc “ cơm ăn con”.
Thứ ba, về kể và diễn đạt khó khăn: Được hiểu là trẻ gặp khó khăn trong việc kết nối từ vựng để giải thích, mô tả hoặc duy trì một cuộc hội thoại.
Ví như khi đưa cho một trẻ 4 tuổi, bức tranh bạn đánh răng vào buổi sáng, trẻ khó khăn trong việc gọi tên hoạt động, trẻ có thể nói “ Đánh răng” “chà chà..”kết hợp động tác chà răng. Hoặc “buổi sáng” trẻ có thể gọi tên “Mặt trời”.
Nguyên nhân rối loạn ngôn ngữ
Hiện nay chưa xác định được nguyên nhân chính xác gây nên tình trạng rối loạn ngôn ngữ ở trẻ. Các yếu tố nguy cơ được đưa ra như:
Yếu tố nguy cơ trước sinh:liên quan đến bất thường nhiễm sắc thể, gen, di truyền; tuổi bố mẹ khi sinh con; trong quá trình mang thai mẹ phơi nhiễm, độc hại, mắc bệnh nguy hiểm.
Yếu tố bệnh lý: liên quan đến cấu trúc và chức năng não bộ vùng ngôn ngữ của trẻ gặp rối loạn.
Yếu tố môi trường: Môi trường nơi trẻ sinh sống học tập như gia đình, trường lớp thiếu đi những tương tác trực tiếp giữa người với người, trẻ tiếp xúc với tivi điện thoại nhiều và đặc biệt là các chương trình nước ngoài.
Phương pháp can thiệp hỗ trợ trẻ rối loạn ngôn ngữ
Trẻ có rối loạn ngôn ngữ, tùy thuộc vào mức độ và tình trạng mà cha mẹ có thể can thiệp hỗ trợ bằng cách khác nhau, có thể gợi ý như:
Cung cấp vốn từ: cần cung cấp thêm vốn từ cho trẻ với nhiều chủ đề đa dạng như phương tiện giao thông, con vật, màu sắc, hình ảnh sinh hoạt…thông qua thẻ tranh hình, đồ vật, đồ chơi hằng ngày. Đọc thơ, kể chuyện thường xuyên với trẻ.
Mở rộng câu: Tập cho trẻ mở rộng câu theo từng cấp độ từ từ đơn lên từ ghép lên cụm từ, lên câu…Ví dụ: Hãy dạy trẻ nói từ “Ăn”, sau đó dạy con “ăn cơm”,“ăn bánh”, “ăn mì”…
Phát triển khả năng diễn đạt bằng việc trò chuyện mớm lời thường xuyên để trẻ có thể điền khuyết những từ còn thiếu, kể gợi ý để trẻ mô tả về các sự vật, sự việc xung quanh trẻ
3. Rối loạn âm lời nói
Rối loạn âm lời nói xảy ra khi trẻ vẫn duy trì lỗi cấu âm khi đã qua mốc chuẩn tuổi lĩnh hội lời nói. Độ tuổi để đánh giá trẻ rối loạn âm lời nói là trên 3 tuổi, các kỹ năng nhận thức và ngôn ngữ của trẻ phát triển bình thường. Trẻ chỉ gặp vấn đề về phát âm.
Một vài nguyên nhân dưới đây có thể làm cho trẻ có vấn đề về phát âm như:
Bệnh lý, về tai mũi họng, các bệnh ở đường thở như viêm xoang, ngạt mũi, liệt dây thanh… cũng khiến trẻ phát âm khó khăn. Trẻ suy giảm thính lực, khiến việc nghe của trẻ khó khăn, không chính xác dẫn đến việc phát âm không đúng.
Phương ngữ vùng miền, được hiểu là ảnh hưởng của tiếng, giọng địa phương khiến trẻ phát âm sai như “l n…”.
Việc trẻ xem tivi điện thoại nhiều, với các chương trình tiếng nước ngoài kéo dài trong giai đoạn học nói, khiến trẻ dễ gặp phải tình trạng bắt chước theo các tiếng đó mà không rõ, hoặc sai về phát âm như nói Tiếng Anh chuẩn, nói Tiếng Việt mất dấu thanh.
Biểu hiện rối loạn âm lời nói
Trẻ nói thiếu âm, tức là khi nói trẻ bị thiếu âm, làm cho từ không rõ. Như khi nói “cam” trẻ sẽ nói thành “ca” hoặc “am”
Trẻ có nói bị méo âm, như thay vì nói “bốn” thì trẻ nói thành“Bốmm”
Trẻ nói thay thế âm, tức là khi trẻ nói bị thay thế một số âm. Như trẻ nói âm “Th” sẽ bị chuyển thành âm “h” như là: “Thỏ” thành “hỏ”.
Trẻ nói bị thừa âm, tức là khi nói trẻ bị thừa một số âm. Ví dụ: “sườn” thành “sường”.
Phương pháp hỗ trợ can thiệp rối loạn âm lời nói
Trước hết có thể kiểm tra y tế để biết chính xác về mặt giải phẫu sinh lý trẻ có khiếm khuyết hay không để can thiệp phù hợp.
Đồng thời, cần hạn chế xem tivi điện thoại nhiều, đặc biệt là những chương trình nước ngoài.
Tích cực trò chuyện với trẻ, cùng trẻ đọc chuyện, đọc thơ khi nói điều chỉnh tốc độ nói của bản thân và của trẻ chậm hơn, để trẻ nghe và phát âm rõ hơn.
Và quan trọng cần cho trẻ gặp chuyên viên âm ngữ để được chỉnh âm theo đúng mức độ.
Với những thông tin cung cấp trên, hi vọng rằng cha mẹ sẽ hiểu rõ hơn được một vài rối loạn phát triển ở trẻ trong giai đoạn 2 - 4 tuổi và có những định hướng, can thiệp, hỗ trợ phù hợp giúp trẻ phát triển.
Tác giả: Chuyên viên tâm lý Nguyễn Thị Vân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American Psychiatric Association (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders: DSM-5. Washington, D.C., American Psychiatric Press.
2. De Freitas de Sousa A, Coimbra I M, Castanho J M, Polanczyk GV, Rohde LA. Attention deficit hyperactivity disorder. In Rey JM & Martin A (eds), JM Rey’s IACAPAP e-Textbook of Child and Adolescent Mental Health (phiên bản tiếng Việt; Phạm Minh Triết, Nguyễn Thị Huệ, Trần Kim Phú, eds). Geneva: International Association for Child and Adolescent Psychiatry and Allied Professions 2020.
3. Đinh Thị Hoa (2019), Nghiên cứu áp dụng thang Zimmerman trong sàng lọc rối loạn ngôn ngữ ở trẻ em nói Tiếng Việt từ 1 đến 6 tuổi.